Câu 1. Phân tích các trường hợp Tòa án phải trả lại đơn kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
- Căn cứ vào Điều 472 BLTTDS năm 2015, Toà án phải trả lại đơn kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong các trường hợp sau đây, cụ thể là 05 trường hợp :
(1) Đã có thoả thuận trọng tài, thoả thuận lựa chọn TA nước ngoài: Vụ án tranh chấp đã được các bên thoả thuận đưa ra Trọng tài giải quyết. Khi đó thẩm quyền của trọng tài phát sinh trên cơ sở các bên thoả thuận giao thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ cho trọng tài viên. Thoả thuận trọng tài có ý nghĩa làm cho tổ chức trọng tài có thẩm quyền đối với một tranh chấp cụ thể và loại trừ thẩm quyền của TA quốc gia trong trường hợp các bên có thoả thuận trọng tài. Như vây, nếu một tranh chấp thương mại được các bên thoả thuận đưa ra trọng tài và thoả thuận trọng tài có giá trị pháp lý thì TAVN sẽ không có thẩm quyền đối với tranh chấp đó. Đối với trường hợp lựa chọn Toà án nước ngoài thì Toà án Việt Nam sẽ không có thẩm quyền cho dù thuộc thẩm quyền riêng biệt tại Điều 469. Quy định này thể hiện tôn trọng ý chí các bên lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp.
- CSPL: điểm a khoản 1 Điều 472, Điều 6 Luật trọng tài thương mại năm 2010
(2) Vụ việc không thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam quy định tại Điều 470 tại BLTTDS và Vụ việc đã được Trọng tài hoặc Toà án nước ngoài thụ lý giải quyết: Theo quy định này cho thấy chỉ cần bất kì cơ quan giải quyết tranh chấp nào của nước ngoài thụ lý thì sẽ loại trừ thẩm quyền của Toà án Việt Nam. Mục đích của quy định nhằm giảm bớt tình trạng một vụ việc mà có nhiều sự giải quyết từ các quốc gia, cơ quan khác nhau dẫn đến hệ quả pháp lý khác nhau.
- CSPL: điểm c khoản 1 Điều 472 BLTTDS năm 2015
(3) Vụ việc không thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam quy định tại Điều 470 tại BLTTDS và thuộc thẩm quyền riêng biệt của Toà án nước ngoài: toà án Việt Nam trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết nếu vụ việc dân sự không thuộc thẩm quyền riêng biệt của Việt Nam và thuộc thẩm quyền riêng biệt của Toà án nước ngoài, giúp Toà án Việt Nam giảm bớt gánh nặng về vấn đề giải quyết tranh chấp nhưng không thể công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Khi nhận đơn khởi kiện thì Tòa án Việt Nam sẽ xem xét có Toà án nào có thẩm quyền riêng biệt giải quyết tranh chấp này hay không, nếu có thì phải trả đơn khởi kiện, hoặc nếu Toà án đã thụ lý thì phải đình chỉ giải quyết.
- CSPL: điểm b khoản 1 Điều 472 BLTTDS năm 2015
(4) Vụ việc đã được giải quyết bằng quyết định, bản án của Toà án nước ngoài hoặc phán quyết của Trọng tài nước ngoài: Đây là quy định thể hiện nguyên tắc một vụ việc không được xét xử hai lần tránh dẫn đến việc nhiều phán quyết và không thể thi hành trên thực tế, việc áp dụng hệ thống pháp luật khác nhau để giải quyết vụ án sẽ dẫn đến nội dung của bản án, quyết định của Toà án khác nhau.
- CSPL: điểm d khoản 1 Điều 472 BLTTDS năm 2015
(5) Được hưởng quyền miễn trừ tư pháp: Đây là một quy định mang tính hướng về học thuyết miễn trừ tuyệt đối, theo đó Nhà nước nước ngoài chỉ chịu trách nhiệm dân sự khi họ từ bỏ quyền miễn trừ tuyệt đối. Do quyền miễn trừ tư pháp xuất phát từ chủ quyền của quốc gia- là yếu tố tối cao trong TPQT. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân được hưởng quyền miễn trừ tư pháp theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà nước CHXHCN VN là thành viên thì vụ việc dân sự có liên quan đến chủ thể nêu trên thì được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
- CSPL: khoản 4 Điều 2, điểm đ khoản 1 Điều 472 BLTTDS năm 2015
Câu 2. Phân tích điều kiện để bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
Điều kiện để bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam thuộc các trường hợp sau:
- Thứ nhất, bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài được quy định tại điều ước quốc tế mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN là thành viên.
- Thứ hai, bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài mà theo quy định của pháp luật thì nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài trên cơ sở nguyên tắc Có đi có lại.
Chế độ có đi có lại được hiểu là một quốc gia sẽ dành các ưu đãi hoặc các chế độ pháp lý nhất định cho cá nhân và pháp nhân nước ngoài, tương ứng như công dân và pháp nhân của mình đã được hưởng tại nước ngoài đó.
+ Có đi có lại thực chất: Quốc gia sở tại sẽ dành cho cá nhân và pháp nhân nước ngoài một số quyền và nghĩa vụ hoặc những ưu đãi nhất định đúng bằng những quyền và nghĩa vụ cũng như những ưu đãi thực tế mà các cá nhân và pháp nhân của quốc gia đó được nhận tại nước ngoài tương ứng.
+ Chế độ có đi có lại hình thức: Quốc gia sở tại dành cho cá nhân và pháp nhân nước ngoài một chế độ pháp lý nhất định (như chế độ đối xử quốc gia, hay tối huệ quốc) mà các cá nhân và pháp nhân của quốc gia đó được nhận tại nước ngoài tương ứng.
- Thứ ba, bản án, quyết định dân sự khác của Tòa án nước ngoài được pháp luật Việt Nam quy định công nhận và cho thi hành.
Đồng thời bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài không nằm trong các trường hợp không được công nhận và cho thi hành quy định tại Điều 439 BLTTDS 2015.
- CSPL: Khoản 1 Điều 423, Điều 439 BLTTDS 2015
Câu 3. Phân tích các trường hợp Bản án, quyết định của Toà án nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
- Về trường hợp bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài không được công nhận đóng vai trò quan trọng. BLTTDS 2015 quy định về những trường hợp này và tập trung ở Điều 439. Theo đó, các lý do chính cho việc từ chối công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản ăn, quyết định của toà án nước ngoài gồm:
+ Không đáp ứng điều kiện để được công nhận theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đây là một quy định mới được BLTTDS năm 2015 quy định.
+ Xuất phát từ hiệu lực của bản án, quyết định. Bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật của nước có Toà án đã ra bản án, quyết định đó.
+ Có sự vi phạm về thủ tục tố tụng, cụ thể quyền tố tụng của bên phải thi hành không được đảm bảo.
- Toà án nước ngoài không có thẩm quyền giải quyết vụ việc theo quy định tại Điều 440 BLTTDS năm 2015. Điều 440 quy định về các vụ việc thuộc thẩm quyền của toà án nước ngoài, gồm: (i) Vụ việc dân sự không thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam quy định tại Điều 470 của BLTTDS năm 2015; (ii) Vụ việc dân sự quy định tại Điều 469 của BLTTDS năm 2015 nhưng đố một trong các điều kiện sau đây:
+ Bị đơn tham gia tranh tụng mà không có ý kiến phản đối thẩm quyền của Tòa án nước ngoài đó;
+ Vụ việc diễn sự này chưa có bản án, quyết định của Tòa án nước thứ ba đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành.
+ Vụ việc dân sự này đã được Tòa án nước ngoài thụ lý trước khi Tòa án Việt Nam thụ lý.
- Đã có bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật về cùng vụ việc hoặc vụ việc đã được toà án thụ lý.
- Đã hết thời hiệu thi hành án hoặc việc thi hành bản án, quyết định đã bị hủy bỏ hoặc đình chỉ thi hành tại nước có Tòa án đã ra bản án, quyết định đó.
- Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của toà án nước ngoài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có sự giải thích nội hàm của khái niệm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, TAND tối cao cũng chưa có sự hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Trên thực tế, các thẩm phán Việt Nam chưa có cách hiểu thống nhất về vấn đề này nên dẫn đến sự áp dụng không thống nhất trong thực tiễn giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của toà án nước ngoài tại Việt Nam. Đây là vấn đề tồn tại từ BLTTDS năm 2004. Điều này đòi hỏi cần có sự giải thích chính thức nội hàm khái niệm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Lý do bản án, quyết định của Toà án nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam:
- Bản án, Quyết định Dân sự của Tòa án Nước ngoài không đáp ứng được một trong các điều kiện để được công nhận quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp định song phương về tương trợ tư pháp với các nước như: Trung Quốc, Lào, Pháp, Mông Cổ, v.v., Tất cả các Hiệp định song phương này đều có quy định về việc công nhận và cho thi hành bản án của nước ngoài ở Việt Nam, bao gồm quy định về: phạm vi công nhận và thi hành; điều kiện và thủ tục công nhận và thi hành, v.v..
- Bên phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của bên đó đã vắng mặt tại phiên tòa của Tòa án Nước ngoài do không được triệu tập hợp lệ hoặc văn bản của Tòa án Nước ngoài không được tống đạt cho họ trong một thời hạn hợp lý theo quy định của pháp luật của nước có Tòa án Nước ngoài đó để họ thực hiện quyền tự bảo vệ Đây là căn cứ từ chối thi hành bản án của Tòa án nước ngoài khi bên phải thi hành án không có cơ hội bình đẳng để trình bày vụ việc của mình.
- Lý do Tòa án Việt Nam không thừa nhận giá trị pháp lý và từ chối thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài vì cho rằng tòa án nước ngoài không có thẩm quyền là lý do mới được đưa vào BLTTDS 2015. Có nhiều nhà nghiên cứu không đồng tình với lập luận này, cho rằng thẩm quyền của tòa án nước ngoài sẽ không phụ thuộc vào quan điểm của nhà làm luật Việt Nam.
- Việc công nhận và cho thi hành bản án, phán quyết của nước ngoài giúp giảm thiểu chi phí tố tụng của các bên tham gia tranh chấp, Tòa án quốc tế sẽ không phải xét xử lại vụ án đó một lần nữa. Tuy nhiên, việc công nhận và cho thi hành bản án, phán quyết của nước ngoài ở Việt Nam phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định. Nó thể hiện quyền tài phán độc lập của một quốc gia, không một quốc gia, tổ chức quốc tế nào có thể ép buộc một quốc gia hay tổ chức quốc tế khác công nhận và cho thi hành bản án, phán quyết của nước ngoài tại nước mình. Điều này không chỉ thể hiện chủ quyền của Việt Nam, mà còn phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
- Pháp luật Việt Nam cũng cho phép một trong các bên đương sự có quyền gửi đơn yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài nếu xét thấy quyền lợi của mình bị vi phạm, không được đảm bảo và yêu cầu toà án Việt Nam xem xét tính đúng đắn của bản án do toà án nước ngoài tuyên. Thủ tục xét đơn yêu cầu không công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài được quy định tại các điều từ Điều 444 đến Điều 446 BLTTDS 2015.
Đặt lịch hẹn tư vấn Hotline: 1900.633.703