Câu 1. Trình bày khái niệm, nguyên nhân, phạm vi phát sinh của hiện tượng xung đột pháp luật.
- Khái niệm: Xung đột pháp luật là hiện tượng có hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
- Nguyên nhân phát sinh xung đột pháp luật:
(1) Có sự tồn tại quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài:
+ Các quan hệ mà tư pháp quốc tế điều chỉnh là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng bao gồm không chỉ các quan hệ dân sự thuần tuý (hôn nhân, đất đai, thừa kế,...) mà còn cả các quan hệ lao động, kinh doanh, thương mại,...
+ Chính yếu tố nước ngoài đã làm cho các quan hệ này liên quan tới ít nhất là hai quốc gia, hai hệ thống pháp luật mà quốc gia dù lớn hay nhỏ đều độc lập và bình đẳng với nhau. Các hệ thống pháp luật là bình đẳng với nhau nên các hệ thống pháp luật đó đều có thể được áp dụng để điều chỉnh cùng một quan hệ trong tư pháp quốc tế tương ứng và hầu hết các quốc gia đều chấp nhận việc có thể áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh. Quyết định sử dụng hệ thống pháp luật nào chính là vấn đề cần giải quyết. Khoa học tư pháp quốc tế gọi đó là hiện tượng xung đột pháp luật.
(2) Có sự khác nhau về nội dung cụ thể giữa pháp luật của các nước về cùng một vấn đề:
+ Do mỗi nước có điều kiện cơ sở hạ tầng khác nhau, điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội khác nhau, tập quán, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo, cách giải thích pháp luật khác nhau, áp dụng pháp luật khác nhau và hơn nữa là trình độ phát triển ở các nước là không đồng đều nên pháp luật của các nước được xây dựng trên các nền tảng đó cũng có sự khác nhau.
- Phạm vi phát sinh:
+ Trong các ngành luật: Xung đột pháp luật không được thừa nhận trong việc điều chỉnh những quan hệ xã hội thuộc sự điều chỉnh của luật công: hình sự, hành chính, vì để đảm bảo lợi ích, công bằng cho Nhà nước. Xung đột pháp luật là hiện tượng đặc thù của TPQT, chỉ được thừa nhận trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
+ Trong các quan hệ của TPQT: TPQT điều chỉnh các quan hệ dân sự và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài nhưng chỉ thừa nhận hiện tượng xung đột pháp luật trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Những quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài với bản chất là sự điều chỉnh của luật tư nên có thừa nhận hiện tượng xung đột pháp luật. Còn bản chất của quan hệ tố tụng dân sự là luật công, các bên tham gia tố tụng dân sự như: người tham gia tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng,… phải tuân thủ theo quy định của Nhà nước nên mặc dù xung đột pháp luật là hiện tượng đặc thù của TPQT thì vẫn không thừa nhận xung đột pháp luật đối với quan hệ tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài.
+ Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia: Với các nhà nước đơn nhất như Việt Nam, các hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn của các văn bản pháp luật đều được giải quyết bởi cùng một hệ thống pháp luật nên hiện tượng xung đột pháp luật không được thừa nhận. Tuy nhiên, với các nhà nước liên bang như Mỹ, hiện tượng xung đột pháp luật được xem xét với ba khía cạnh: xung đột pháp luật giữa các bang với nhau, xung đột pháp luật giữa các bang và liên bang, xung đột pháp luật giữa các liên bang và các quốc gia nước ngoài.
- Ngoại lệ: nhà nước đơn nhất có các khu tự trị thì vẫn có hiện tượng xung đột pháp luật.
Câu 2. Trình bày phương pháp giải quyết hiện tượng xung đột pháp luật.
- Có 02 phương pháp giải quyết xung đột pháp luật:
+ Phương pháp xây dựng và áp dụng quy phạm thực chất;
+ Phương pháp xây dựng và áp dụng quy phạm xung đột.
Phương pháp xây dựng và áp dụng quy phạm thực chất:
- Khái niệm: Là phương pháp dùng quy phạm thực chất trực tiếp điều chỉnh quan hệ mà không cần bất kì một khâu trung gian nào. Quy phạm này quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ. Quy phạm thực chất thường được ghi nhận trong các điều ước quốc tế và hệ thống pháp luật quốc gia.
- Ưu điểm:
- Giúp cho việc giải quyết các xung đột được nhanh chóng hơn. Vì quy phạm thực chất trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ các bên, đồng thời có quy định về biện pháp chế tài nên cơ quan thẩm quyền có thể dựa vào quy phạm thực chất để áp dụng mà không cần phải chọn luật áp dụng;
- Các chủ thể tham gia thường biết trước các điều kiện pháp lý đó để hợp tác với nhau trong các quan hệ, tránh được các xung đột xảy ra;
- Quy phạm thực chất có cả trong pháp luật quốc gia nên trường hợp các quy phạm này được sử dụng sẽ cho thấy vai trò của pháp luật quốc gia;
- Quy phạm thực chất còn có trong các Điều ước quốc tế (Quy phạm thực chất thống nhất) => Làm giảm đi khác biệt trong pháp luật các nước;
- Điều chỉnh trực tiếp các quan hệ, tính khả thi cao, loại bỏ được sự khác biệt, mâu thuẫn trong luật pháp giữa các nước với nhau.
- Hạn chế:
- Không thể trù liệu được hết các lĩnh vực cũng như quan hệ phát sinh;
- Không có khả năng thay đổi ứng biến linh hoạt;
- Khó khăn khi xây dựng một quy phạm thực chất thống nhất giữa các quốc gia vì quan hệ dân sự bị ảnh hưởng bởi tập quán, văn hóa mỗi quốc gia;
- Do không dễ dàng xây dựng nên số lượng ít, áp dụng kém linh hoạt mềm dẻo hơn so với phương pháp xung đột.
Phương pháp xây dựng và áp dụng quy phạm xung đột:
- Khái niệm: Là phương pháp sử dụng các quy phạm xung đột để giải quyết xung đột pháp luật. Đây là các quy phạm pháp luật đặc biệt, nó không quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ, nhiệm vụ của các quy phạm xung đột chỉ là xác định hệ thống pháp luật của quốc gia nào sẽ được áp dụng để điều chỉnh quan hệ, còn bản thân quan hệ chưa được giải quyết. Muốn giải quyết vấn đề thì cơ quan có thẩm quyền cần căn cứ vào quy phạm xung đột, áp dụng hệ thống pháp luật mà quy phạm xung đột dẫn chiếu đến.
- Ưu điểm:
- Quy phạm xung đột không quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài mà chỉ quy định cách thức chọn hệ thống pháp luật áp dụng điều chỉnh các quan hệ đó => Dễ dàng điều chỉnh các quan hệ này => Linh hoạt, mềm dẻo và mang tính khách quan cao hơn phương pháp thực chất, có thể áp dụng trong mọi quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài kể cả những quan hệ dân sự chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của phong tục, tập quán;
- Do dễ tiến hành xây dựng => Quy phạm xung đột chiếm số lượng lớn => Khả năng áp dụng cao => Các quốc gia đều xây dựng quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật quốc gia;
- Việc xây dựng quy phạm xung đột do chính các quốc gia tự xây dựng trong hệ thống pháp luật nước mình chứ không cần các quốc gia ngồi lại thỏa thuận với nhau => Dễ tiến hành hơn việc xây dựng các quy phạm thực chất.
- Hạn chế:
- Không áp dụng trực tiếp mà trải qua nhiều giai đoạn gây mất thời gian. Ví dụ: Nếu quy phạm xung đột dẫn chiếu đến hệ thống pháp luật nước ngoài thì cơ quan có thẩm quyền cần phải xác định nội dung pháp luật nước nước ngoài, giải thích pháp luật nước ngoài, các vấn đề phức tạp nảy sinh như bảo lưu trật tự công, dẫn chiếu ngược trở lại, dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba,…;
- Chỉ xác định hệ thống pháp luật cần áp dụng chứ không nêu cụ thể cách giải quyết;
- Không phải lúc nào cũng giúp xác định được hệ thống pháp luật cần áp dụng;
- Quy tắc giải quyết xung đột ở các nước khác nhau trong cùng một vấn đề gây khó khăn cho cơ quan giải quyết tranh chấp và các bên tham gia quan hệ;
- Việc áp dụng quy phạm xung đột đòi hỏi người áp dụng phải có kiến thức và kỹ năng về Tư pháp quốc tế (dịch thuật, tìm hiểu pháp luật, so sánh đối chiếu pháp luật, ...).
Câu 3. Trình bày về hệ thuộc luật nhân thân
- Khái niệm: Là việc áp dụng pháp luật nước mà cá nhân mang quốc tịch hoặc có nơi cư trú.
- Hình thức: Luật nhân thân có hai dạng đó là luật quốc tịch và luật nơi cư trú.
+ Luật quốc tịch: là luật của nước mà đương sự là công dân.
+ Luật nơi cư trú: là luật của nước mà đương sự có nơi cư trú (nơi thường trú hoặc nơi đương sự có mặt).
- Phạm vi áp dụng: Hệ thuộc luật nhân thân thường được áp dụng để giải quyết vấn đề về năng lực hành vi dân sự, năng lực pháp luật dân sự và các mối quan hệ quyền về nhân thân, hôn nhân và gia đình, di chúc và thừa kế tài sản là động sản, định danh tài sản,…
- Phương thức áp dụng: Khi áp dụng hệ thuộc luật nhân thân (hoặc luật quốc tịch, hoặc luật nơi cư trú), một vấn đề đặt ra là áp dụng dạng hệ thuộc nào đưa lại kết quả tối ưu nhất để giải quyết các vấn đề liên quan.
Luật quốc tịch mang tính ổn định và dễ xác định hơn so với luật nơi cư trú. Nhưng khó khăn sẽ đặt ra trong trường hợp một người có hai quốc tịch hoặc không có quốc tịch. Ngược lại luật nơi cư trú thì luôn được xác định đối với một người hoặc nơi người đó có mặt hoặc nơi người đó thường xuyên cư trú (nơi người đó có mối liên hệ gắn bó nhất), việc áp dụng luật quốc tịch hoặc luật nơi cư trú hoặc kết hợp áp dụng song song cả hai luật quốc tịch và luật nơi cư trú để giải quyết các quan hệ tùy theo quy định riêng của từng hệ thống pháp luật.
Câu 4. Trình bày về hệ thuộc luật nơi có tài sản
- Khái niệm: Hệ thuộc luật nơi có tài sản được hiểu là cách thức xác định pháp luật áp dụng để giải quyết các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế dựa vào dấu hiệu nơi có tài sản (tồn tại dưới dạng vật) là đối tượng của quan hệ pháp luật đó đang hiện hữu. Nói một cách ngắn gọn, luật nơi có tài sản quy định tài sản ở đâu thì áp dụng luật ở đó để giải quyết.
- Về phạm vi áp dụng: Luật nơi có tài sản chủ yếu được áp dụng để giải quyết các vấn đề:
- Xác định việc xác lập, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản;
- Phân loại tài sản là bất động sản hay động sản/định danh tài sản;
- Thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản;
- Hợp đồng có đối tượng là bất động sản;
- Hình thức của di chúc nếu di sản thừa kế là bất động sản.
- Thực tiễn áp dụng:
- Luật nơi có tài sản được hầu hết các quốc gia áp dụng để giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi áp dụng nêu trên, ngoại trừ nước Pháp định danh tài sản theo Hệ thuộc luật Tòa án (Lex Fori);
- Theo pháp luật Việt Nam, hệ thuộc luật nơi có tài sản được quy định trong các mối quan hệ về phân biệt tài sản là động sản hoặc bất động sản; xác lập, thay đổi, chấm dứt và nội dung quyền sở hữu; quyền thừa kế tài sản là bất động sản (CSPL: Điều 677, 678, 680 Bộ luật dân sự 2015);
- Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết với các quốc gia để giải quyết vấn đề về tài sản là bất động sản, định danh tài sản trong quan hệ thừa kế cũng đều áp dụng nguyên tắc luật nơi có tài sản.
- Các trường hợp ngoại lệ không áp dụng Luật nơi có tài sản để giải quyết:
- Tài sản đang trên đường vận chuyển;
- Tài sản thuộc quyền sở hữu của quốc gia;
- Tài sản của pháp nhân trong trường hợp tổ chức lại hoạt động hay chấm dứt hoạt động.
- Tài sản là tàu bay, tàu biển.
- Tài sản vô hình.
Câu 5. Trình bày về hệ thuộc luật lựa chọn
- Khái niệm: Trong trường hợp các bên tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, thỏa thuận chọn luật áp dụng cho quan hệ giữa họ thì luật do các bên thỏa thuận sẽ được áp dụng.
- Phạm vi áp dụng: Các bên trong hợp đồng có thể tự nguyện thỏa thuận mối quan hệ pháp luật của họ. Luật nơi ký kết hợp đồng phải được áp dụng trong mọi trường hợp vì đây là luật mà các bên trong hợp đồng đã mặc nhiên chấp nhận áp dụng theo Điều 681 BLDS 2015:
- Hợp đồng;
- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
- Thực hiện công việc không có ủy quyền;
- Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản đang trên đường vận chuyển.
- Các điều kiện chọn luật:
- Phải có sự thỏa thuận giữa các bên và sự thỏa thuận đó phải dựa trên ý chí tự nguyện của các bên, đây là điều kiện quan trọng và cần thiết để luật của các bên có hiệu lực;
- Luật do các bên thỏa thuận không được trái với các nguyên tắc cơ bản của điều ước quốc tế mà các bên là thành viên;
- Luật do các bên lựa chọn không trái với pháp luật quốc gia mà các bên mang quốc tịch;
- Chỉ được quyền chọn luật khi điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam quy định về việc cho phép các bên chọn luật;
- Luật được lựa chọn phải là những quy phạm thực chất, tức là những quy phạm này phải trực tiếp áp dụng giải quyết các tranh chấp phát sinh mà không phải dẫn chiếu đến một hệ thống pháp luật nào khác;
- Hậu quả của việc chọn luật không nhầm lẫn tránh pháp luật.