Tin tức & Sự kiện

LUẬT THỊNH HẢI - LUẬT SƯ RIÊNG CỦA BẠN

Trên thực tế, có nhiều trường hợp người chồng bỏ nhà đi biệt tích một khoảng thời gian dài đằng đẵng mà không một lời từ biệt, không một lời hỏi thăm về nhà trong suốt khoảng thời gian đó. Người vợ không biết được tin tức của chồng, không biết được chồng mình có trở về hay không, không biết được người chồng còn sống hay đã chết. Trong khoảng thời gian này, người vợ phải chịu đựng sự cô đơn khi không có chồng bên cạnh, không có ai cùng san sẻ gánh nặng gia đình; nếu họ gặp được một người có thể chia sẻ với họ những điều khó khăn này, liệu họ có thể một lần nữa lựa chọn kết hôn với người đó? Nếu sau khi kết hôn, chồng cũ đã biệt tăm của người vợ quay về, quan hệ hôn nhân giữa người vợ và chồng cũ sẽ được giải quyết như thế nào? Hôm nay, hãy cùng Luật Thịnh Hải tìm hiểu về vấn đề này nhé!

“Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình

(...)

2. Cấm các hành vi sau đây:

a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

(...)”

  • Như vậy, khi người chồng bỏ đi biệt tích dù bao lâu thì quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng vẫn đang tồn tại. Do đó, việc người vợ kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác trong thời gian chồng bỏ đi biệt tích được coi là hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

 

  • Tuy nhiên, không phải vì quy định trên mà người vợ hoàn toàn không thể kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác khi người chồng bỏ đi biệt vô âm tính một trong khoảng thời gian dài. Căn cứ vào thời gian người chồng cũ bỏ đi, ta sẽ chia ra thành hai trường hợp để đi sâu vào tìm hiểu vấn đề này:

 

  1. Trường hợp người chồng bỏ nhà đi biệt tích từ 2 năm liền trở lên:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 68 BLDS 2015 về Tuyên bố mất tích:

Điều 68. Tuyên bố mất tích

1. Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.

Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.

(…)” 

  • Như vậy, khi người chồng bỏ đi biệt tích không lời nhắn nhủ từ 2 năm liền trở lên, sau khi áp dụng đầy đủ các biện pháp cần thiết để tìm kiếm theo quy định nhưng vẫn biệt vô âm tính thì người vợ có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố người chồng mất tích.

 

Theo quy định tại khoản 2 Điều 68 BLDS 2015: “Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình”.

Đồng thời, theo quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về Ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn”.

  • Như vậy, sau khi Tòa án tuyên bố người chồng mất tích, người vợ có quyền nộp đơn xin ly hôn đến Tòa án để Tòa giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.

 

 Theo khoản 1 Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định thời điểm chấm dứt hôn nhân và trách nhiệm gửi bản án, quyết định ly hôn như sau: “Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật”.

  • Như vậy, khi Tòa án tuyên bố người chồng mất tích, người vợ có cơ sở để yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với người này. Sau khi được Tòa ra quyết định ly hôn, vào thời điểm quyết định này có hiệu lực pháp luật thì quan hệ hôn nhân giữa hai người lúc này sẽ chấm dứt, người vợ có thể kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác. Nếu sau đó, chồng cũ trở về thì quan hệ hôn nhân giữa hai người đã không còn, chồng cũ không có cơ sở ép buộc hay đòi hỏi người vợ phải thực hiện nghĩa vụ của người làm vợ nữa.

 

  1. Trường hợp người chồng bỏ nhà đi biệt tích trong thời gian dài đến mức Tòa án có thể tuyên bố người này đã chết:

Theo quy định tại Điều 71 Bộ luật Dân sự 2015 về việc tuyên bố chết như sau:

1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:

a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;

b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;

c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này”.

  • Như vậy, khi người chồng biệt tích 5 năm liền trở lên hay sau 3 năm kể từ ngày có quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực không có tin tức xác thực là còn sống thì người vợ có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố người chồng đã chết. Ngoài ra, nếu người chồng không bỏ nhà đi biệt tích mà rơi vào trường hợp tại điểm b,c khoản 1 Điều 71 nói trên thì người vợ cũng có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố rằng chồng mình đã chết.

 

Theo quy định tại Điều 65 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về thời điểm chấm dứt hôn nhân như sau: “Hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án”.

  • Như vậy, khi Tòa án tuyên bố người chồng là đã chết vào ngày nào được ghi trong bản án thì ngày này cũng được xác định là thời điểm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa hai người mà người vợ không cần phải nộp đơn xin đơn phương ly hôn. Kể từ đây, người vợ có quyền kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác mà không bị xem là hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

 

Theo quy định tại Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết mà trở về như sau:

1. Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn. Trong trường hợp có quyết định cho ly hôn của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật.

2. Quan hệ tài sản của người bị tuyên bố là đã chết trở về với người vợ hoặc chồng được giải quyết như sau:

a) Trong trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể từ thời điểm quyết định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực. Tài sản do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ đã chết có hiệu lực là tài sản riêng của người đó;

b) Trong trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước khi quyết định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà chưa chia được giải quyết như chia tài sản khi ly hôn.

  • Như vậy, nếu sau khi kết hôn với người khác mà chồng cũ đã được Tòa án tuyên bố chết trở về thì vẫn không ảnh hưởng đến quan hệ hôn nhân với người chồng sau. Quan hệ hôn nhân giữa người vợ và người chồng sau vẫn được xem là hợp pháp, quan hệ hôn nhân giữa người vợ và người chồng cũ sẽ không được khôi phục. Đồng thời, tài sản chung giữa người vợ và người chồng cũ có được trước khi quyết định tuyên bố chết của Tòa án có hiệu lực mà chưa được chia thì sau khi người này về, tài sản này sẽ được chia theo trường hợp chia tài sản ly hôn.

ĐỊA CHỈ VĂN PHÒNG