Tin tức & Sự kiện

LUẬT THỊNH HẢI - LUẬT SƯ RIÊNG CỦA BẠN

Hôn nhân giữa những người có cùng giới tính?

Hôn nhân là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi con người và những vấn đề pháp lý xung quanh câu chuyện “hôn nhân và gia đình” luôn là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm. Hôm nay xin mời các bạn cùng với Luật Thịnh Hải tìm hiểu về việc liệu hôn nhân giữa những người có cùng giới tính có được chấp nhận tại Việt Nam hay không?

Hôn nhân giữa những người cùng giới tính hay còn gọi là Hôn nhân đồng giới là một vấn đề hết sức nhạy cảm không chỉ ở riêng Việt Nam mà trên cả toàn thế giới. Hôn nhân đồng tính là hôn nhân giữa những người có cùng giới tính sinh học. Theo khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “ Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.”. Có thể thấy theo quy định của pháp luật hiện hành Nhà nước đã sử dụng cụm từ “không thừa nhận” điều này có nghĩa là pháp luật sẽ không cho phép người đồng giới đăng ký kết hôn tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay được coi như vợ - chồng với các quyền và nghĩa vụ tương ứng. Tuy nhiên, những người đồng giới có vẫn có thể tổ chức hôn lễ, chung sống với nhau nhưng dưới con mắt pháp luật thì không được coi như vợ chồng và không thể đăng ký kết hôn với cơ quan nhà nước.

Điều này cũng đặt ra câu hỏi liệu những người chuyển giới có thể thực hiện đăng ký kết hôn hay không?

Đối với trường hợp này pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể nhưng từ những quy định trong BLDS 2015 cùng với Nghị định số 88/2008/NĐ-CP về việc xác định lại giới tính do Chính phủ ban hành có thể thấy vẫn có trường hợp người chuyển giới được quyền thực hiện đăng ký kết hôn. Cụ thể như sau:

Theo Điều 36 BLDS 2015: 

“1. Cá nhân có quyền xác định lại giới tính.

Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ giới tính.

2. Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật.

3. Cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được xác định lại theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.”

Và Điều 5, Điều 6 của Nghị định 88/2008/NĐ-CP:

“Điều 5. Tiêu chuẩn y tế xác định khuyết tật bẩm sinh về giới tính

1. Nam lưỡng giới giả nữ:

a) Bộ phận sinh dục có dương vật nhỏ, có thể sờ thấy tinh hoàn hoặc không, siêu âm hoặc nội soi thấy tinh hoàn, không có tử cung và buồng trứng;

b) Nhiễm sắc thể giới tính là XY hoặc gen biệt hóa tinh hoàn dương tính hoặc kết hợp cả hai trường hợp trên.

2. Nữ lưỡng giới giả nam:

a) Bộ phận sinh dục có âm vật phát triển như dương vật nhưng không sờ thấy tinh hoàn, siêu âm hoặc nội soi thấy có tử cung, buồng trứng, không thấy tinh hoàn;

b) Nhiễm sắc thể giới tính là XX.

3. Lưỡng giới thật:

a) Bộ phận sinh dục không xác định được là nam hay nữ. Tuyến sinh dục có cả tổ chức tinh hoàn, buồng trứng;

b) Nhiễm sắc thể giới tính có thể là một trong các dạng XX/XY; XXX/XY; XX/XXXY hoặc các dạng nhiễm sắc thể khác được xác định là lưỡng giới thật.

Điều 6. Tiêu chuẩn y tế xác định giới tính chưa được định hình chính xác

Nhiễm sắc thể giới tính có thể giống như trường hợp nữ lưỡng giới giả nam hoặc nam lưỡng giới giả nữ hoặc lưỡng giới thật nhưng bộ phận sinh dục chưa được biệt hoá hoàn toàn và không thể xác định chính xác là nam hay nữ.”

Qua những quy định tại Điều 5 và Điều 6 Nghị định 88/2008/NĐ-CP trường hợp người chuyển giới nếu đáp ứng các tiêu chuẩn y tế cho việc xác định lại giới tính của họ thì theo Điều 36 BLDS 2016 họ có quyền xác định lại giới tính và được chỉnh sửa trên sổ hộ tịch theo điểm c khoản 2 Điều 3 Luật Hộ tịch năm 2014. Và sau khi được chỉnh sửa trên sổ hộ tích thì người chuyển giới có thể thực hiện đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật.

ĐỊA CHỈ VĂN PHÒNG