Công ty trách nhiệm hai thành viên trở lên là loại hình doanh nghiệp được hình thành và hoạt động theo pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam. Ở nước ta, kể từ khi Luật Doanh nghiệp được ban hành và có hiệu lực vào các năm 1999, 2005, 2014 và năm 2020, số lượng các doanh nghiệp gia tăng nhanh chóng, trong đó có loại hình doanh nghiệp là Công ty trách nhiệm hai thành viên trở lên. Tuy vậy, ngoài một số đóng góp tích cực cho xã hội thì loại hình doanh nghiệp này vẫn còn nhiều hạn chế cần được cải thiện. Bài viết phân tích một số vấn đề pháp luật về Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo Luật Doanh nghiệp năm 2020 và đề xuất một số giải pháp khắc phục.
Điều 46 Luật Doanh nghiệp năm 2020 ở nước ta quy định:
“1. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp có từ 02 đến 50 thành viên là tổ chức, cá nhân. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 47 của Luật này. Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại các điều 51, 52 và 53 của Luật này.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
3. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên không được phát hành cổ phần, trừ trường hợp để chuyển đổi thành công ty cổ phần.
4. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên được phát hành trái phiếu theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; việc phát hành trái phiếu riêng lẻ phải tuân thủ quy định tại Điều 128 và Điều 129 của Luật này”.
Đặc điểm của Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên:
Ngoài một số đặc điểm chung mà một Công ty TNHH cần có, Công ty TNHH hai thành viên trở lên có các đặc điểm riêng như sau:
+ Về chủ sở hữu
Đây là mô hình công ty có sự liên kết của ít nhất hai thành viên là cá nhân hoặc tổ chức đáp ứng điều kiện thành lập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 17 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Bên cạnh đó, pháp luật có quy định về việc giới hạn thành viên của công ty là không quá 50 người. Điều này nhằm đảm bảo quá trình quản lý công ty, giúp chắc chắn các thành viên trong công ty có thể quen biết, hiểu về nhau thúc đẩy sự hợp tác và làm việc có hiệu quả.
+ Về vốn điều lệ của công ty
Vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên khi đăng ký doanh nghiệp là tổng giá trị phần vốn góp các thành viên cam kết góp vào công ty. Thành viên phải góp vốn phần vốn góp cho công ty đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Thành viên công ty chỉ được góp vốn phần vốn góp cho công ty bằng các tài sản khác với loại tài sản đã cam kết nếu được sự tán thành của đa số thành viên còn lại. Trong thời hạn này, thành viên có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp như đã cam kết góp.
Tuy nhiên, quy định về chuyển nhượng vốn trong công ty TNHH hai thành viên trở lên cũng khá đặc biệt: Theo đó, khi có nhu cầu chuyển nhượng vốn, các thành viên phải ưu tiên chuyển nhượng cho thành viên trước rồi mới đến người ngoài, trừ trường hợp yêu cầu công ty mua lại mà các thành viên công ty không mua trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày chào bán.
+ Về trách nhiệm tài sản của chủ sở hữu
Trách nhiệm tài sản của các thành viên trong công ty là trách nhiệm hữu hạn, trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Điều này giúp cho những cá nhân hoặc tổ chức là thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên vẫn có thể tham gia góp vốn hoặc thành lập doanh nghiệp khác.
+ Về tư cách pháp lý
Công ty TNHH hai thành viên trở lên là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Theo đó, công ty TNHH hai thành viên trở lên sẽ có tư cách pháp nhân kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
+ Về khả năng huy động vốn
Mặc dù công ty TNHH hai thành viên trở lên không có quyền huy động vốn bằng phát hành cổ phần (được quyền phát hành trái phiếu) giống như công ty cổ phần. Tuy nhiên, công ty vẫn có khả năng bằng uy tín để huy động vốn từ tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, phát hành trái phiếu hoặc tự góp thêm vốn bởi các thành viên.