[CÂU HỎI] Ba mẹ tôi sống chung với nhau nhưng không DKKH từ năm 1985. Trong thời gian đó, ba mẹ có xây dựng ngôi nhà 1,2 tỷ, 100ha ruộng. Tất cả giấy tờ đều do ba tôi đứng tên nhưng người bỏ công nhiều nhất lại là mẹ. Giờ ba mẹ tôi không muốn sống với nhau nữa thì tài sản có được phân chia không và nếu được thì chia như thế nào?
1. Hôn nhân thực tế là gì?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 44 Nghị định 123/2015/NĐ-CP:“Đối với trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích và tạo điều kiện để đăng ký kết hôn. Quan hệ hôn nhân được công nhận kể từ ngày các bên xác lập quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng”.
Theo đó, có thể thấy rằng đối với những trường hợp được coi là hôn nhân thực tế thì việc đăng ký kết hôn đặt ra chỉ mang ý nghĩa “khuyến khích” chứ không hề mang tính bắt buộc.. Nếu không tiến hành đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được pháp luật công nhận và bảo vệ.
2. Chia tài sản trong hôn nhân thực tế sẽ ra sao?
Đây là hôn nhân thực tế, QNV của các bên trong hôn nhân này giống với hôn nhân đã DKKH. Muốn chấm dứt quan hệ hôn nhân này cần có bản án, quyết định của Tòa án giải quyết ly hôn. Vậy nên việc phân chia tài sản khi ly hôn được áp dụng theo nguyên tắc quy định tại Điều 59 Luật HNGĐ 2014 như sau:
- Trước hết dựa trên sự thỏa thuận của 2 bên.
- Nếu không thỏa thuận được thì: Đối với tài sản riêng của ai thì sẽ thuộc về người đó; Đối với tài sản chung thì thông thường sẽ được chia đôi.
Tiếp theo, tại Điều 33 Luật HNGĐ 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau: - TSC của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ TSR và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật HNGD 2014;
- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
- Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
- Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất được dùng để đảm bảo nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
- Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là TSC.
Như vậy, nhà ở và đất đã mua trong thời kỳ hôn nhân, về nguyên tắc là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng (nếu như không có căn cứ để chứng minh được đó là (tài sản riêng). Tài sản đó được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân nên là TSC của vợ chồng. Việc chỉ có mình người chồng hoặc mình người vợ đứng tên trên Giấy chứng nhận không làm ảnh hưởng đến quyền sở hữu của người vợ.
3. Kết luận:
Do đó, khi cha mẹ của Quý khách hàng không muốn sống chung với nhau nữa thì vẫn phải thực hiện thủ tục ly hôn. Khi đó tài sản sẽ được phân chia dựa theo những phân tích ở trên.
Đặt lịch hẹn tư vấn Hotline: 1900.633.703