Trong các giao dịch vay mượn, việc trả nợ đúng hạn là nghĩa vụ quan trọng của bên vay. Tuy nhiên, thực tế không ít trường hợp người vay vì nhiều lý do khác nhau mà chậm thanh toán so với thỏa thuận. Vậy trong tình huống này, bên vay có phải tiếp tục trả lãi hay không? Liệu có bị áp dụng thêm khoản phạt nào khác? Đây là vấn đề pháp lý quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cả hai bên. Hãy cùng Luật Thịnh Hải tìm hiểu quy định của pháp luật để có câu trả lời chính xác và rõ ràng nhất!
1. Trường hợp vay không có lãi theo quy
Theo quy định tại khoản 4 Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 thì trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
Theo đó, đối với trường hợp này khi đến hạn trả nợ hoặc bên vay trả không đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay trả một phần lãi với mức lãi suất tối đa 10% trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Trường hợp vay có lãi
Theo quy định tại khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 thì trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
- Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
- Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Căn cứ theo Điều 468 BLDS 2015 quy định về lãi suất như sau:
- Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
- Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.
Theo đó, đối với trường hợp này ngoài trả tiền lãi trong hạn theo thỏa thuận của hai bên, thì bên vay còn phải trả một phần tiền lãi chậm trả trên phần tiền lãi trong hạn mà bên vay chưa trả (nếu có) với lãi suất bằng 50% lãi suất thỏa thuận nhưng tối đa 10% và một phần tiền lãi trên phần nợ gốc quá hạn chưa trả với lãi suất bằng 150% lãi suất thỏa thuận tương ứng với thời gian chậm trả.
Như vậy, tùy trường trường hợp mà bên vay phải thực hiện thanh toán nợ gốc và cả lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả của mình.