Tin tức & Sự kiện

LUẬT THỊNH HẢI - LUẬT SƯ RIÊNG CỦA BẠN

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường thực hiện việc mua bán hàng hóa tài sản để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu. Tuy nhiên, vì nhiều lý do như nhẹ dạ cả tin hay thiếu hiểu biết về pháp luật mà có thể dẫn đến những tình huống vô cùng oái ăm và khiến chúng ta vướng vào những rắc rối pháp lý không đáng có. Điển hình trong số đó có thể kể đến việc mua phải các loại tài sản có được thông qua hành vi trộm cắp. Vậy khi gặp phải trường hợp này cần phải giải quyết như thế nào? Hôm nay mời các bạn cùng Luật Thịnh Hải tìm hiểu!!

Việc thu mua tài sản có được do hành vi trộm cắp có thể dẫn đến các hậu quả pháp lý vô cùng nghiệp trọng. Trường hợp người mua nhận thức rõ đây là tài sản có được do hành vi trộm cắp thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức phạt tù sau đây:

 

“Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

 

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

  •  Có tổ chức;
  • Có tính chất chuyên nghiệp;
  • Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
  •  Thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
  •  Tái phạm nguy hiểm.

 

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 10 năm:

  • Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
  • Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng.

 

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

 

  • Tài sản, vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
  • Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên.”

Trong trường hợp người thu mua tài sản không biết tài sản mình thu mua có được do trộm cắp sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này. Tuy nhiên,  giao dịch giữa người thu mua tài sản và người bán tài sản có được do trộm cắp được xác định là giao dịch vô hiệu vì nội dung của giao dịch vi phạm điều cấm của luật khi người bán không phải là chủ sở hữu của tài sản nhưng lại bán cho người thu mua, tài sản giao dịch mua bán là do phạm tội mà có. 

 

Căn cứ theo Điều 167 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

“Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.”

 

Và khoản 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015:

“2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.”

 

Theo quy định, do giao dịch mua bán trong trường hợp này được xác định là giao dịch dân sự vô hiệu, hậu quả pháp lý sẽ được giải quyết như sau: chủ sở hữu có quyền yêu cầu lấy lại tài sản đã bị trộm cắp và thu mua, trong khi người thu mua phải hoàn trả tài sản đó và chịu trách nhiệm bồi thường các thiệt hại phát sinh, nếu có. Nếu việc hoàn trả bằng hiện vật không thể thực hiện, người thu mua phải hoàn trả bằng giá trị tiền tương đương với trị giá của tài sản.

ĐỊA CHỈ VĂN PHÒNG