Tin tức & Sự kiện

LUẬT THỊNH HẢI - LUẬT SƯ RIÊNG CỦA BẠN

Khi xem những bộ phim Hàn Quốc, chúng ta đã không ít lần bắt gặp cụm từ “Hợp đồng hôn nhân”. Tưởng chừng chỉ diễn ra ở trong phim nhưng ngày nay tại Việt Nam, hợp đồng hôn nhân đã không còn quá xa lạ vào thời điểm hiện tại. Về lý do để lập Hợp đồng hôn nhân thì có nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể là lợi dụng để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách,... Vậy pháp luật Việt Nam quy định thế nào là hợp đồng hôn nhân, hãy cùng tìm hiểu với Luật Thịnh Hải nhé!

Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có một quy định cụ thể như thế nào là Hợp đồng hôn nhân giữa vợ và chồng. Tuy nhiên, theo Điều 47 LHN&GĐ 2014 (Luật Hôn nhân và gia đình 2014) thì có đề cập đến việc Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng và Thỏa thuận này phải được lập trước hôn nhân. Cụ thể tại Điều 47 LHN&GĐ 2014 quy định: Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.” 

Nội dung của Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm: Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình; điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản; Nội dung khác có liên quan (Điều 48 LHN&GĐ 2014). 

Căn cứ theo điểm d, đ khoản 2 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định: 

“...

d) Lợi dụng việc kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình;

đ) Lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân.”

Những hợp đồng vì mục đích trục lợi, để kết hôn giả nêu trên còn có thể bị phạt từ 10.000.000 đồng - 20.000.000 đồng và biện pháp khắc phục là buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.

Vì vậy, mặc dù pháp luật Việt Nam chỉ quy định về việc thỏa thuận trước khi kết hôn về vấn đề tài sản bao gồm việc xác định tài sản chung, tài sản riêng, xác lập quyền sở hữu với tài sản,... còn những “hợp đồng hôn nhân” mang tính vụ lợi và có dấu hiệu không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện và đảm bảo các điều kiện pháp lý để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên trong mối quan hệ thì pháp luật Việt Nam đương nhiên không được pháp luật Hôn nhân và Gia đình công nhận.

ĐỊA CHỈ VĂN PHÒNG